5 lần đỗ Tú tài. Năm Tân Dậu (Thiệu Trị XVlll) đỗ Cử nhân.
Làm quan thăng tri-phủ, tùng Tứ phẩm, Nội vu Phó Giám Lâm. Cùng ahi anh Lương và Trọng-Phát lập tộc-phả năm 1854 bằng Hán tự.
Sinh năm Giáp Dần. Bé tên Hoan. Lớn lên đi thi đổi là Xuân-Thiều. Sau Quan Đốc-Học bỏ chữ Xuân làm Nghiêm-Thiều, tên chữ là Thục-Quang. Tăng phong "Triều-Liệt Đại-Phu", tùng Tứ-phẩm, lĩnh Lang-Trung sung Nội-vụ Phó Giám-Lâm. Tên hàm là Đoan-Lang, tên hiệu là Tứ-Phong. Khoa Đinh-vị, Mậu Thân, Canh Tuất đều đỗ Tú-tài.
Khoa Ất Mão bài thi ở hạng Cử-nhân thứ nhất, nhưng viết lộn đầu bài, phải truất xuống đầu hàng Tú-tài.
Năm Thiệu Trị 11 (khoa Mậu Ngọ) lại đỗ Tú-tài. Trước sau 5 lần đỗ Tú-tài.
Năm 14, khoa Tân Dậu, trường Hà-nội, trường Thanh-hóa, cụ đỗ Cử-nhân số 1.
Năm 18 bổ Hàn-Lâm-viện Điển-Tịch, hậu bổ tỉnh Nam-định.
Năm 19 quyền Tri-huyện Mỹ-lộc, huyện Thượng-nguyên.
Năm 20 bổ Giáo-thụ phủ Ninh-giang. Tháng 7 năm ấy làm quyền huyện Gia-lộc.
Năm 22 bổ Tri-huyện Thanh-hà.
Năm 25 bổ Binh Bộ khảo công-ty Tư-vụ.
Năm 26 Tùy phái tỉnh Hà-nội. Tháng chạp năm ấy, quan Tòan-quyền họ Nguyễn tư xin ở.. ..
Năm 27 quyền huyện Bình-lục. Tháng 8 quyền huyện H... Yên.
Năm 30 bổ Đồng Tri-phủ Vĩnh-xương.
Năm 31 bổ Thự Tri-phủ.
Năm 33 thăng "tùng Tứ Phẩm" lĩnh Lang-Trung, sung Nội-vụ Phó Giám Lâm.
Năm Giáp Thân cáo hồi hưu dưỡng.
Mất ngày 3-1 Ất Dậu